saostar

Giải pháp bán hàng online Số 1 Việt Nam

Lễ hội Gầu tào của người Mông

Hội Gầu tào (chơi núi), diễn ra vào dịp Tết Mông theo lịch riêng của người Mông. Lễ hội có hai phần riêng biệt nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ. Phần lễ với mục đích cầu phúc, hoặc cầu mệnh. Phần hội, với mục đích vui chơi cộng đồng, thể hiện lòng thành của gia chủ.
Một gia đình nào đó có đủ điều kiện về kinh tế nhưng không có con, có ít hoặc sinh con một bề, nhân dịp Tết, ông chủ đứng ra tổ chức lễ hội Gầu tào. Một gia đình khác kinh tế tuy khá giả nhưng cứ chững lại hoặc lụi dần, con cháu ốm yếu, vật nuôi thui chột, cũng nhân dịp Tết, chủ nhà tổ chức lễ Gầu tào. 




Như vậy, lễ hội Gầu tào không chỉ ở một gia chủ mà có thể nhiều gia chủ, cũng không chỉ ở một bản mà nhiều bản, thậm chí, lễ thì ở một gia đình, còn hội thì liên bản, liên xã, nhưng không ngoài khu vực mà gia đình đã lựa chọn mỗi dịp Tết Nu tra (Tết Mông) hằng năm.

Nhưng dù cầu phúc hay cầu mệnh, gia chủ cũng đều phải dựa vào ông thầy cúng; thầy cúng (mo) là nhân vật thay thế người trần (chủ nhà) giao tiếp với tổ tiên hoặc thổ công. Thông thường, chủ nhà tổ chức lễ hội liền trong ba năm, mỗi năm tổ chức từ ba đến năm ngày. Nếu muốn làm gộp lại một năm thì phải kéo dài ngày hội ra mười, mười hai ngày.

Phần lễ, chủ nhà cúng tại bàn thờ tổ tiên (xỉ căn pù giở) vào chiều ngày 30 Tết và kết thúc vào ngày mồng 3 hoặc 4 Tết. Mâm cúng đơn giản: có ván gà, cơm, rượu, hương la, có giấy bản (tớ chu), có bánh dày (pá tó), bánh chưng (pá khứ). Phần hội, từ các ngày mồng ba, bốn hoặc mồng năm. Ngày mở đầu phải là ngày con trâu, rồng hoặc chó, kiêng ngày hổ. Để tổ chức hội chu đáo, từ ngày 25, 26 Tết (Tết Mông, tức 25-26 tháng 11 âm lịch), chủ nhà chọn các chàng trai khỏe mạnh, chặt cây tre to cao làm cây nêu.

Cây nêu được trồng tại quả đồi thoai thoải hay bãi bằng mà chủ nhà chọn làm trung tâm lễ hội, thân cây treo một bầu rượu, một miếng vải đỏ để kính báo với thần linh: cây nêu báo hiệu cho cả bản, cả xã biết vị chủ gia đình nọ sẽ tổ chức lễ hội và mời cả làng bản cùng đến tham gia vui hội. Ngoài chủ nhà và thầy cúng còn có một số người trong bộ phận giúp việc, đứng đầu là vị cáng xử (trưởng ban), tiếp đến là các chí táo (ủy viên). Mỗi chí táo lo liệu một công việc vui chơi. Cây nêu dựng xong, chủ nhà làm lễ cúng ngay dưới chân cây mời pù giở, lồng chứ và các vị thần linh về dự hội, phù trợ cho gia chủ được phúc hoặc thoát mệnh.

Từ mồng ba đến mồng năm (tháng 12 âm lịch) chọn ngày tốt, giờ tốt, chủ nhà tiến hành khai hội. Dưới chân cây nêu, gia chủ chỉ nói vài lời có tính chất tuyên bố, ngay sau đấy cuộc hát hội bắt đầu, các trai tài gái đẹp đua nhau cất tiếng, nội dung lời hát lúc này chủ yếu là những bài chúc tụng, ngợi ca, hoặc giao duyên tình cảm, tuyệt đối không hát những bài buồn thương, những lời ta thán. Số diễn viên này được cáng xử chuẩn bị trước, gia đình chủ hộ phải trả công cho họ. Sau màn hát "khai mạc" ấy, hàng trăm người tỏa khắp quả đồi, dưới đồng ruộng cạn, dọc đường đi... với các lễ phục sắc mầu rực rỡ, vòng cổ, vòng tay lấp lánh, tiếng gọi, tiếng nói râm ran, hàng chục loại nhạc cụ với đủ hình thức, kiểu cách mang vác trên tay, trên vai, cài trên vành khăn, cài trên vạt áo, trông rất phong phú, vui mắt.

Từ giờ phút này cho đến hết vài ba ngày sau tùy theo kế hoạch của gia chủ, các trò vui chơi diễn ra thật sôi nổi dưới sự điều hành của vị cáng xỉ và các chí táo tạo nên không khí ngày hội vui khỏe hấp dẫn. Sau ba ngày hoặc năm ngày, chủ nhà làm lễ kết thúc, ông thầy cúng thay mặt gia chủ tạ ơn tổ tiên, trời đất, thần linh, xin quý nhân phù trợ. Thầy mo đốt giấy bản, cây nêu hạ xuống, rượu trong bầu được gia chủ tưới khắp đồi. Mảnh vải đỏ được đưa về nhà treo trên cột chính trong nhà hay cửa ra vào nơi trú ngụ của xta mềnh (thần cửa). Nếu là cầu phúc, gia chủ chọn đôi trai gái đông con, con khỏe, khiêng cây nêu về gác lên sàn nhà, nếu là cầu mệnh, cây nêu gác phía sau nhà với hàm ý ngăn cản quỷ ác.

Như đã nói ở trên, sau phần khai hội, vị cáng xỉ điều hành các chí táo thực hiện trò chơi thể thao và các nội dung sinh hoạt văn hóa. Các sinh hoạt văn hóa chủ yếu của người Mông là hát giao duyên, súng lùng (thổi khèn lá), gầu lầu chàng (kéo nhị), xú giàng (khèn môi), sú kềnh (thổi kèn bè), chảng lày (sáo tiêu), sinh tiền (múa gậy), sú kình (múa khèn).... Các trò chơi vui khỏe có: lảy pao (ném quả pao), tầu tí (đánh cầu), dê tào (leo núi), lau kỉnh (đẩy gậy), trảy mình (đua ngựa), tua nính (bắn nỏ), gầu tẩu tràng (nói ống dày), tầu tù lu (đánh cù), trí dạy (chơi dấu), di păng (vặn gậy), ri sì (vật cột), mùng lớ (đi săn), v.v.

Các loại hình sinh hoạt văn hóa và thể thao dân tộc của người Mông thật phong phú, đặc sắc, nó thể hiện đúng chất Mông của một vùng đất phía tây chưa bị pha tạp. Có điều do những điều kiện khác nhau nên nhiều nét đẹp văn hóa ấy bị mai một, thậm chí bị quên lãng mà không biết rằng, đấy chính là sức sống tinh thần mãnh liệt của một dân tộc giữa vùng núi cao giá lạnh.

Bạn đã xem chưa

0 nhận xét | Viết lời bình

Copyright © 2014 Cao Nguyên Đá