Riêng miền núi thì chia thành châu và trại và vùng đất Hà Giang lúc đó thuộc về châu Bình Nguyên. Vào đầu thời Trần, bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương được xây dựng thành một hệ thống chặt chẽ và khu vực Hà Giang – Tuyên Quang được gọi là châu Tuyên Quang, lộ Quốc Oai. Năm 1397 thì đổi thành trấn Tuyên Quang. Năm 1407 sau khi sâm chiếm nước ta, nhà Minh đổi châu này thành phủ Tuyên Hoá và đến năm 1408 thì đổi lại là phủ Tuyên Hoá.

Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, để củng cố và tăng cường chế độ Trung ương tập quyền, vua Lê Thái Tổ chia cả nước thành 5 đạo, dưới đạo là trấn, lộ, phủ, huyện, châu và cuối cùng là cấp xã. Vùng đất Hà Giang – Tuyên Quang lúc đó thuộc vào Tây đạo. Đến năm1466 vua Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, đạt nơi đây là thừa tuyên Tuyên Quang. Năm 1940 lại đổi là xứ Tuyên Quang gồm huyện Phù Yên ( sau đổi là Hàm Yên), 5 châu (Thu sau đổi là Thu Châu, Đại Nam – sau đổi là Chiêm Hoá, Vị Xuyên, Bảo lạc và L?c Yờn) và phủ An Bình. Đến đời Hồng Thuân (1509- 1526), đổi xứ Tuyên Quang thành trấn Minh Quang. Thời Lê Trung Hưng, Qua sử sách cho thấy, khu vực Hà Giang vùng phía Nam, phía Tây và một phần vùng phía Bắc thuộc châu Vị Xuyên, phần còn lại phía Đông và một phần phía Bắc thuộc châu Bảo Lạc
Năm 1802, Gia Long thiết lập vương triều Nguyễn, đổi đặt xứ thành trấn và xứ Tuyên Quang thành trấn Tuyên Quang. Đến năm Minh Mệnh thứ 12 (năm 1831) triều đình nhà Nguyễn thực hiện cải cách hành chính đổi trấn thành tỉnh, đổi một số châu thành huyện và sách động thành xã. Từ lúc này trấn Tuyên Quang mới được gọi là tỉnh Tuyên Quang. Năm 1842 thì chia tỉnh Tuyên Quang thành 3 hạt bao gồm Hà Giang, Bắc Quang và Tuyên Quang
Tuy địa danh Hà Giang được nhắc đến lần đầu tiên trong bài minh khắc trên chuông chùa Sùng Khánh xã Đạo Đức – Vị Xuyên đúc trong dịp trùng tu chùa từ đầu thời vua Lê Dụ Tông (năm 1705) nhưng t?nh Hà Giang thì mới có vào ngày 20/8/1891 với quy?t định của toàn quyền éông Dương Đờ Lanétxăng. Theo quyết định này, Hà Giang lúc đó gồm có phủ Tường Yên và huyện Vĩnh Tuy. Năm 1928, theo tài liệu của Ngô Vi Liễn, Hà Giang có hai châu (Bắc quang, Vị Xuyên), 2 đại lý (Đồng Văn, Hoầng Su Phì) với 13 tổng và 80 xã.
Sau cách mạng tháng 8 - 1945, Hà Giang là một đơn vị hành chính cấp tỉnh trong cơ cấu hành chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khoá V, kỳ họp thứ hai, ngày 27- 12-1975, hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang được hợp nhất thành tỉnh Hà Tuyên vào đầu tháng 4-1976. Sau đó, đến ngày 12-8-1991, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII đã ra nghị quyết chia tỉnh Hà Tuyên thành Hà Giang và Tuyên Quang. Tỉnh Hà Giang được tái lập từ đó và giữ nguyên địa danh cho đến nay. Hiện tại Hà Giang có 11 huyện thị bao gồm: thị xã Hà Giang, các huyện Bắc Mê, Bắc Quang, Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Quản Bạ, Quang Bình, Vị Xuyên, Xín Mần, và Yên Minh, với 195 xã phường thị trấn.

Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, để củng cố và tăng cường chế độ Trung ương tập quyền, vua Lê Thái Tổ chia cả nước thành 5 đạo, dưới đạo là trấn, lộ, phủ, huyện, châu và cuối cùng là cấp xã. Vùng đất Hà Giang – Tuyên Quang lúc đó thuộc vào Tây đạo. Đến năm1466 vua Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, đạt nơi đây là thừa tuyên Tuyên Quang. Năm 1940 lại đổi là xứ Tuyên Quang gồm huyện Phù Yên ( sau đổi là Hàm Yên), 5 châu (Thu sau đổi là Thu Châu, Đại Nam – sau đổi là Chiêm Hoá, Vị Xuyên, Bảo lạc và L?c Yờn) và phủ An Bình. Đến đời Hồng Thuân (1509- 1526), đổi xứ Tuyên Quang thành trấn Minh Quang. Thời Lê Trung Hưng, Qua sử sách cho thấy, khu vực Hà Giang vùng phía Nam, phía Tây và một phần vùng phía Bắc thuộc châu Vị Xuyên, phần còn lại phía Đông và một phần phía Bắc thuộc châu Bảo Lạc
Năm 1802, Gia Long thiết lập vương triều Nguyễn, đổi đặt xứ thành trấn và xứ Tuyên Quang thành trấn Tuyên Quang. Đến năm Minh Mệnh thứ 12 (năm 1831) triều đình nhà Nguyễn thực hiện cải cách hành chính đổi trấn thành tỉnh, đổi một số châu thành huyện và sách động thành xã. Từ lúc này trấn Tuyên Quang mới được gọi là tỉnh Tuyên Quang. Năm 1842 thì chia tỉnh Tuyên Quang thành 3 hạt bao gồm Hà Giang, Bắc Quang và Tuyên Quang
Tuy địa danh Hà Giang được nhắc đến lần đầu tiên trong bài minh khắc trên chuông chùa Sùng Khánh xã Đạo Đức – Vị Xuyên đúc trong dịp trùng tu chùa từ đầu thời vua Lê Dụ Tông (năm 1705) nhưng t?nh Hà Giang thì mới có vào ngày 20/8/1891 với quy?t định của toàn quyền éông Dương Đờ Lanétxăng. Theo quyết định này, Hà Giang lúc đó gồm có phủ Tường Yên và huyện Vĩnh Tuy. Năm 1928, theo tài liệu của Ngô Vi Liễn, Hà Giang có hai châu (Bắc quang, Vị Xuyên), 2 đại lý (Đồng Văn, Hoầng Su Phì) với 13 tổng và 80 xã.
Sau cách mạng tháng 8 - 1945, Hà Giang là một đơn vị hành chính cấp tỉnh trong cơ cấu hành chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khoá V, kỳ họp thứ hai, ngày 27- 12-1975, hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang được hợp nhất thành tỉnh Hà Tuyên vào đầu tháng 4-1976. Sau đó, đến ngày 12-8-1991, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII đã ra nghị quyết chia tỉnh Hà Tuyên thành Hà Giang và Tuyên Quang. Tỉnh Hà Giang được tái lập từ đó và giữ nguyên địa danh cho đến nay. Hiện tại Hà Giang có 11 huyện thị bao gồm: thị xã Hà Giang, các huyện Bắc Mê, Bắc Quang, Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Quản Bạ, Quang Bình, Vị Xuyên, Xín Mần, và Yên Minh, với 195 xã phường thị trấn.








0 nhận xét | Viết lời bình